Bạn đang truy cập vào diễn đàn cũ của Đamsan.Net. Diễn đàn này không nhận đăng kí thành viên mới cũng như bài viết mới kể từ ngày 11-02-2012. BQT.
Nằm bên con sông Tuộc trong xanh, cách thị trấn Đông Hưng (Thái Bình) chừng 5 cây số, từ vài thế kỷ trước, làng Cổ Khúc - tên nôm gọi làng Khuốc, đã nức tiếng xứ Đông xứ Đoài, là một trong bảy nôi chèo của đất Việt. Hỡi cô thắt dải lưng xanh/ Có xem chèo Khuốc với anh thì về chính là đất này. Theo sử sách ghi lại, có lúc trong làng có đến 14, 15 gánh hát. Hiện xã có cả thảy bốn CLB chèo, chia đều cho 4 thôn (Khuốc Đông, Khuốc Tây, Khuốc Bắc, Cổ Xá). Tất cả đều được tổ chức lớp lang, quy củ, nhằm mục đích bảo tồn và phát huy vốn, chất chèo cổ của ông cha để lại. Có điều lạ là tất cả những ai biết hát chèo Khuốc trong xã này đều có thể hát được chèo nơi khác, song họ lại chỉ hát 12 làn điệu chèo cổ của chính làng Khuốc như Tình thư Hà Vi, Đường trường thư công, Vẫn non mai, Tuyết dạt sông Thương, Hề đơm đó, Vỡ nước... Đặc biệt trong số này, có hai miếng chèo độc, Múa Trái và Tắm Tiên trong vở Từ Thức.
Của gia bảo, truyền là truyền thế nào!
Sau khi giải ngũ, ông Ngạn về làng, nhuần nhuyễn 12 điệu chèo cổ, thuần thục trống phách, theo cụ Trạch đi diễn đây đó. Mỗi khi thầy Múa Trái hay Tắm Tiên trên sân khấu, ông thường nghển cổ bên cánh gà học mót, được bao nhiêu giữ kín, không cho ai biết. Ông kể: “Năm 1993, tôi và cụ Trạch tham gia Liên hoan chèo Thái Bình. Hôm đang nằm nghỉ cùng thầy, bỗng đâu nghe giọng Xuân Hinh: Ai là cụ Ngạn làng Khuốc ấy nhỉ? Tôi nhổm người: Tao đây. Cụ đâu mà cụ! Xuân Hinh cười hề hà nói tưởng tôi già lắm nên mới gọi là cụ, rồi chuyển qua gọi anh. Nói lậy vong linh hồn thầy tôi, cụ nhà mình ngày xưa “âm lịch” lắm. Thấy Xuân Hinh kéo tôi ra quán bia bảo “anh cho em xin bài” liền giữ vạt áo dằn giọng sát tai: Truyền gì, dạy gì, hát gì thì cũng phải... giữ nghề nghe chửa! Chèo làng Khuốc, mất hoặc bị phá cách là tôi “thịt”... Biết ý cụ nên ra quán bia tôi chỉ dám hát cho Xuân Hinh nghe làn điệu Hề đơm đó. Mà, nói thật, khi đó sợ thầy, tôi cũng hát trật lất chứ không được nguyên chất chèo Khuốc đâu. Giữ nghề mà”.
Càng giữ chặt càng... chết?
Hỏi vậy chứ từ đó tới giờ ông có truyền nghề cho ai không, ông Ngạn bảo: “Cả huyện Đông Hưng này, chỉ còn 2 xã tôi chưa đến dạy chèo thôi. Nếu là nhạc trẻ, “chạy sô” kiểu ấy tiền để đâu cho hết. Chèo Khuốc có phải là vàng thỏi, tậu được nhà lầu, sắm được xe hơi, vợ chồng con cái vi vu như bậc đại gia thành thị đâu mà giữ. Đằng này, bà nhà tôi vẫn phải quần quật chợ búa, đồng ruộng, lợn gà. Chèo Khuốc là báu vật của làng thật đấy, nhưng nếu càng giữ cho riêng mình thì càng “nghèo”, rồi thì “chết hẳn” nếu không tìm người kế cận ấy chứ...”.
Vậy là miếng chèo độc xưa chỉ đôi người biết, nay cả làng Khuốc biết, lo gì mất mát? Đáp lại suy luận của chúng tôi, ông Ngạn nửa phấn khởi nửa buồn bã: “Cháu cứ chồng đô (tiền) mời đi, cả làng Khuốc sẽ về Hà Nội Múa Trái cho bàn dân thiên hạ xem. Còn Tắm Tiên thì... (ông ngập ngừng) thì chưa. Trước đây người múa Tắm Tiên chuẩn nhất là vợ cụ nghệ nhân Cao Kim Điền. Nhưng cụ khuất núi rồi, mang luôn cả điệu múa khó nhất ấy theo, chả kịp truyền cho ai”.
Trong một không gian sân khấu không rõ được đâu là cõi tiên, đâu là trần thế, thì Múa Trái trong Từ Thức thực sự đưa người xem đến một không gian kỳ ảo khác với không gian mà Từ Thức đang sống ở dưới trần gian. Còn Tắm Tiên thì rất thú vị: Trên sân khấu, diễn viên mặc áo hở yếm thực hiện tất cả các động tác mà qua đó người xem có thể hình dung ra cảnh nàng tiên đang tắm táp thỏa thuê. Đặt trong bối cảnh thời phong kiến, khi mọi thứ đều phải “kín đáo” thì việc trình diễn cảnh tắm táp chứng tỏ ra sự tự do phóng khoáng, và thể hiện ước ao được phô bày cái đẹp cơ thể của con người. Đấy là cái quý giá nhất. Và Tắm Tiên cũng cho ta thấy sự khác lạ giữa Tiên và đời. Tôi chưa thấy một nhân vật nào đóng trong cảnh đời thực trên sân khấu chèo mà có cảnh “tắm táp”, chỉ có cảnh gội đầu thôi. Và cho đến bây giờ thì hầu như trong sân khấu chèo cũng chưa có miếng tắm nào. Cho nên Tắm Tiên trở thành một miếng tắm cực kỳ quý giá trong chèo từ cổ đến ngày nay” (Nhạc sĩ, nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan). Vậy làng Khuốc giờ có bao nhiêu người biết múa Tắm Tiên? Ông Ngạn khẽ cười: “Một người rưỡi! Tôi và chú em trong dòng họ Hà. Nói một người rưỡi là vì chú ấy mới chỉ giỏi trống phách, hát lời, chứ múa chưa bằng tôi được. À, mà xin đính chính là ngay cá nhân tôi thì cũng mới chỉ đạt chuẩn 2/3 thôi, còn 1/3 nữa dẫu rằng múa đẹp hơn các cụ xưa nhưng phải thừa nhận rằng chưa phải là cổ hẳn đâu. Thế nên, tôi rất mong tìm được một nghệ nhân biết về điệu múa Tắm Tiên, mà phải là “cổ điển” cơ, cho xin học lại để hoàn thiện rồi mới dám công bố. Còn giờ, giữ được, truyền được cho bao nhiêu người thì cố gắng hết sức mình vậy thôi”.
Trong một không gian sân khấu không rõ được đâu là cõi tiên, đâu là trần thế, thì Múa Trái trong Từ Thức thực sự đưa người xem đến một không gian kỳ ảo khác với không gian mà Từ Thức đang sống ở dưới trần gian. Còn Tắm Tiên thì rất thú vị: Trên sân khấu, diễn viên mặc áo hở yếm thực hiện tất cả các động tác mà qua đó người xem có thể hình dung ra cảnh nàng tiên đang tắm táp thỏa thuê. Đặt trong bối cảnh thời phong kiến, khi mọi thứ đều phải “kín đáo” thì việc trình diễn cảnh tắm táp chứng tỏ ra sự tự do phóng khoáng, và thể hiện ước ao được phô bày cái đẹp cơ thể của con người. Đấy là cái quý giá nhất. Và Tắm Tiên cũng cho ta thấy sự khác lạ giữa Tiên và đời. Tôi chưa thấy một nhân vật nào đóng trong cảnh đời thực trên sân khấu chèo mà có cảnh “tắm táp”, chỉ có cảnh gội đầu thôi. Và cho đến bây giờ thì hầu như trong sân khấu chèo cũng chưa có miếng tắm nào. Cho nên Tắm Tiên trở thành một miếng tắm cực kỳ quý giá trong chèo từ cổ đến ngày nay” (Nhạc sĩ, nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan).
Giấu nghề?
Ông Ngạn cho biết, hàng ngày vẫn cùng với người em là ông Hà Quang Hoạch luyện Tắm Tiên và thay nhau đi tìm nghệ nhân biết múa hai mảng chèo độc này để xin học lại nhưng vẫn chưa đạt được tâm nguyện. Tôi hỏi ông: “Các bác đi điền dã làm gì! Múa Trái và Tắm Tiên đã là báu vật rồi thì chắc hẳn phải có người khai thác, sưu tầm rồi chứ. Gặp những người như vậy có phải nhàn và đầy đủ hơn không?!” - Ông Ngạn ngúc ngắc đầu, khẽ cười: “Nói thật nhé! Mày là người đầu tiên về đây hỏi bác cặn kẽ về Múa Trái và Tắm Tiên đấy con ạ. Nếu có người sưu tầm, khai thác thì bác mày đã không bạc đầu vì hai mảng chèo độc ấy của làng Khuốc đâu!”.Chạng vạng tối, chúng tôi ra về. Anh con trai ông Ngạn “y lệnh bố” chở chúng tôi bằng xe máy ra tận bến xe Thái Bình. Chia tay ở cửa xe, anh Hà Quang Mạnh (con trai ông Ngạn) tiết lộ một điều làm chúng tôi nửa tin nửa ngờ, rằng cái 1/3 bố anh nói đang còn thiếu trong điệu Tắm Tiên thực ra là cụ giấu đấy thôi, chính anh đã chứng kiến bố múa hoàn hảo điệu này mấy lần trong buồng nhà rồi.
Cảm ơn anh Mạnh. Chúng tôi cũng hy vọng vậy!