Bạn đang truy cập vào diễn đàn cũ của Đamsan.Net. Diễn đàn này không nhận đăng kí thành viên mới cũng như bài viết mới kể từ ngày 11-02-2012. BQT.
Cây đàn bầu Việt Nam từ lâu đã là "Ông hoàng" trong "bộ tộc" nhạc cụ cổ truyền dân tộc, mà ngày nay được hoàn thiện hơn để cùng với sự nâng cao hơn hẳn về nghệ thuật biểu diễn, đã trở thành một đại diện tiêu biểu của đặc sắc văn hóa Việt Nam trong hội nhập thế giới.
Tiếng đàn bầu Việt Nam từ xa xưa đến bây giờ và mai sau nữa, với sức lay động sâu xa, quyến rũ lòng người, được người Việt Nam ta say mê đặc biệt. Còn với người nước ngoài lâu nay, tiếng đàn bầu Việt Nam ở đâu cũng gây ấn tượng mạnh vì sự độc đáo của cây đàn một dây có âm sắc tuyệt đẹp, có thể chơi cả dân ca, nhạc phẩm mang hồn Việt lẫn nhạc phẩm các xứ sở trên thế giới, truyền cảm lạ lùng.
"Âm bồi" tuyệt đẹp hay tiếng lòng người
Đàn bầu, ngay cái tên đàn đã là thuần Việt, lấy cái bầu đàn làm bằng vỏ quả bầu khô vườn nhà nông nào cũng sẵn, để đặt cho cây đàn dân dã lâu đời đơn sơ thế mà độc đáo. Chứ còn cách gọi chữ nghĩa bác học - "độc huyền cầm" - như có người mách rằng đó là do có tài liệu lâu đời bên Trung Quốc chép, thì xa lạ với dân ta, vì nó chỉ nói được là "đàn một dây".
Ấn Độ có đàn Gopi Yantra 1 dây căng giữa, 1 đầu tre và 1 miếng da có 2 thanh tre cặp 2 bên, một tay gẩy, một tay bóp 2 thanh tre tạo cung bậc, chủ yếu phụ họa theo những bài hát của những người hành khất thuộc dân tộc Peul. Nhật Bản có đàn Ichigenkin, 1 dây tơ, một tay dùng các móng đeo vào ngón để gẩy, tay kia chặn dây và vuốt trên dây bằng 1 miếng ngà.
Ở gần ta, Trung Quốc có đàn "nhất huyền cầm", 1 dây tơ, cũng một tay dùng ngón gẩy, tay kia chặn dây tạo âm thanh cao thấp. Campuchia có đàn Sadev, 1 dây căng trên 1 cần đàn giữa 2 trục, cần đàn có 1 bầu gắn vào 1 đầu của đàn, bầu áp vào người, cũng một tay gẩy bằng ngón, tay kia nhấn trên dây.
Đàn bầu Việt Nam, nếu chỉ có nét lạ cổ sơ là 1 dây, có cái bầu đàn là vỏ bầu khô, hộp đàn bằng tre, nứa, vầu, bương hay gỗ; gẩy bằng ngón tay, móng hay que gẩy, phát ra âm thanh do va chạm trực tiếp, 1 lần, tức là "âm thực", thì dẫu có cách tân, hoàn thiện đến mấy về cấu tạo với các vật liệu mới, chẳng bao giờ được coi là nhạc cụ độc đáo, kỳ diệu, tiêu biểu Việt Nam như thế giới đã ghi nhận.
Đàn bầu Việt Nam đặc sắc chính là do một sáng tạo, một phát hiện, có thể nói ở mức phát kiến của ông cha ta, ấy là cách gẩy đàn tạo ra "âm bồi", tức là dây rung do que gẩy ngay tức thì chạm lần nữa vào cườm bàn tay hoặc cạnh ngón tay, để phát ra thứ âm thanh kỳ lạ và mê hoặc không nhạc cụ nào trên đời hơn được.
Tiếng đàn bầu vì thế không còn là tiếng ngân rung của âm thực, với âm sắc dễ nhận ra của dây tơ, dây thép, inox hoặc nilon mà đã biến ảo, để rất gần với giọng người. Nó là giọng hát của người đã được mượt hóa và ngọt hóa, để ngân lên các cung bậc sâu thẳm và phong phú vô cùng tận của tâm hồn người, nhưng lại ẩn đi phần ngữ nghĩa của lời ca, vì thế càng đa nghĩa, và gần gũi với thưởng ngoạn của bạn bè thế giới.
"Ông hoàng Bầu" và hành trình cùng đất nước
Cây đàn violon được ngợi ca là "Nữ hoàng" trong vô vàn nhạc cụ phương Tây, cả khi solo hay đứng trong dàn nhạc thính phòng, giao hưởng. Chính vì nó có ưu thế trội vượt là gần với giọng người, bên cạnh các tính năng riêng khác nữa.
Cây đàn bầu "nói tiếng người" của Việt Nam, từ lâu đã là "Ông hoàng" trong "bộ tộc" nhạc cụ cổ truyền dân tộc, mà ngày nay được hoàn thiện hơn lên để cùng với sự nâng cao hơn hẳn về nghệ thuật biểu diễn, trở thành một đại diện tiêu biểu của đặc sắc văn hóa Việt Nam trong hội nhập thế giới.
Thuở hàn vi, cây đàn bầu đơn sơ làm bạn với bác xẩm mù ở góc chợ quê, trên manh chiếu cũ. Bác xẩm đầu gối đè giữ hộp đàn tre, dây tơ ngân lên tiếng thở than cho kiếp dân quê đói nghèo lam lũ -những "Làn thảm" của chèo, "Bèo dạt mây trôi" của quan họ, "Nam ai" xứ Huế... Và vị ngọt ngào của những điệu hát ru, những lời tình tứ ý nhị "Hoa thơm bướm lượn". Lại cả khi vui nhộn yêu đời với "Trống cơm", "Con gà rừng"...
Ai cũng mê tiếng đàn bầu, nên các bác xẩm mù trở thành "nhạc sư" dân dã của trẻ em và trai tráng các làng quê. Trai làng sau một ngày vất vả cày bừa, tối đến mượn tiếng đàn bầu mà trải lòng mình dưới ánh trăng suông, khiến ai nghe cũng thấy mủi lòng. Chả thế, các nhà có con gái lớn mới dặn con "Đàn bầu ai gẩy nấy nghe. Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu"!
Khi "Ông hoàng" đã có được vị thế đáng nể trong cộng đồng, thì trên hành trình chinh phục con tim có thêm các "cận vệ" dân gian tháp tùng, mà gắn bó, hòa đồng hơn cả là đàn tranh, sáo trúc. Bộ ba hòa tấu này tạo ra âm hưởng hòa quyện giầu âm sắc, đằm thắm, khúc triết, tao nhã mà bay bổng, có sức quyến rũ đặc biệt.
Đàn bầu-tranh-sáo được làng xã và các nhà giầu mời gọi tiếp rước khi có đám, để cho cuộc lễ lạt chúc tụng rượu thịt thêm tưng bừng và có ý vị văn hóa.
Khi chúng ta có các trường âm nhạc và các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, thì "Ông hoàng Bầu'' có uy thế mới với sức chinh phục mới. Cây đàn bầu đẹp dáng, thân gỗ bóng vecni, có khi trang trí họa tiết khảm xà cừ, bầu tiện gỗ.
Chỉ sự độc đáo vốn có của đàn bầu ông cha để lại thì không cách gì thay đổi được. Đó là âm bồi đẹp lạ lùng, và hệ thống âm (nốt) luôn luôn nằm trên các vị trí cố định: Chính giữa (1/2) chiều dài dây đàn -rồi 1/3,1/4, 1/5, 1/6, 1/7, 1/8. Kỹ thuật chơi đàn cũng phong phú hơn, đáng kể là sáng tạo thêm que gẩy ngắn, cách gẩy 2 chiều, nhanh hơn, nhất là có thể "vê dây" (trémolo). Nghệ thuật biểu diễn nâng cao hơn hẳn, ở trình độ chuyên nghiệp, với nhiều nghệ sĩ đàn bầu điêu luyện.
Một thời kháng chiến, qua làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, đồng bào cả nước, bộ đội các chiến trường đã từng say mê tiếng đàn bầu Mạnh Thắng, Đức Nhuận... với những "Ru con" Nam Bộ, "Hoa thơm bướm lượn" Quan họ Bắc Ninh, những tình khúc "Câu hò bên bờ Hiền Lương", "Hà Nội - Huế - Sài Gòn"...
Và chinh phục nhất là độc tấu đàn bầu có dàn nhạc cụ dân tộc làm nền: "Vì miền Nam", "Vũ khúc Tây Nguyên"... Nghệ sĩ Mạnh Thắng sáng chế que gẩy ngắn, đưa thiết bị khuếch đại âm thanh vào đàn bầu, và là người đầu tiên đưa đàn bầu đi trình diễn quốc tế, mang về giải thưởng cao quí cho Việt Nam. Sau đó, với que gẩy ngắn, nghệ sĩ ưu tú Đức Nhuận phát minh kỹ thuật vê dây, cùng cách chơi tạo ra bồi âm kép.
Cây đàn bầu xếp gọn trong ba lô, hành quân dọc Trường Sơn, làm bạn tâm tình cùng chiến sĩ. Đó là công lao của nhạc sĩ Phan Chí Thanh, người đã cải tiến đàn bầu thành nhiều loại. Ông mang ra trận loại "Đàn bầu du kích", thân đàn là những ống tre xếp lồng vào nhau cho gọn, gắn cuộn dây cảm ứng, thêm 1 đài bán dẫn nhỏ, biểu diễn cho bộ đội nghe.
"Cây đàn bầu thật giống con người Việt Nam"
"Ông hoàng Bầu" từ lâu đã có mặt thường xuyên và được ngưỡng mộ trên toàn "vương quốc" âm nhạc nước ta. Bầu đệm cho ngâm thơ, bầu trong dàn nhạc lễ hội, trong các canh hát dân ca, quan họ, trong dàn nhạc tài tử, cải lương, chèo, tuồng. Đặc sắc và mê hồn nhất là bầu solo với dàn đệm phong phú đa sắc của "bộ tộc" nhạc cụ cổ truyền...
Gần đây đàn bầu được mời gọi và có vị trí riêng, góp tiếng đàn ngọt ngào mà sang trọng, trong cả nhạc bác học phương Tây - hợp xướng - thính phòng, giao hưởng... Nay các đoàn ca nhạc Việt Nam đi các nước, trong đoàn sứ giả nhạc cụ và tiết mục, "Ông hoàng Bầu" bao giờ cũng là Chánh sứ.
Và người nước ngoài nghe đàn bầu mà hình dung ra cốt cách Việt Nam. Như nhà thơ Pháp Meray, viết trong sách "Học đàn bầu" của NSƯT Thanh Tâm và Trần Quốc Lộc: Cây đàn bầu thật giống con người Việt Nam. Nghèo của mà giàu lòng. Giản dị mà thanh cao. Đơn sơ mà phong phú.(*)
----------------------------------------
(*) Theo Hộp thư Âm nhạc, Đài truyền hình TP Hồ Chí Minh, 12-2003.
www.tuanvietnam.net
traudat:Đàn bầu - biểu tượng đặc sắc và độc đáo tâm hồn Việt Cây đàn bầu thật giống con người Việt Nam. Nghèo của mà giàu lòng. Giản dị mà thanh cao. Đơn sơ mà phong phú.(*)
Cây đàn bầu thật giống con người Việt Nam. Nghèo của mà giàu lòng. Giản dị mà thanh cao. Đơn sơ mà phong phú.(*)
^_^