Đam San .Net
Diễn đàn yêu âm nhạc và nhạc cụ dân tộc Việt Nam


Bạn đang truy cập vào diễn đàn cũ của Đamsan.Net. Diễn đàn này không nhận đăng kí thành viên mới cũng như bài viết mới kể từ ngày 11-02-2012.
BQT.

Nhạc lý căn bản

rated by 0 users
This post has 44 Replies | 2 Followers

Top 10 Contributor
đại cầm sư cấp 1
Lê Hồng Sơn Posted: 06-18-2008 10:05

CHƯƠNG MỞ ĐẦU

KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT

1. Muốn hiểu ngôn ngữ viết, tối thiểu ta phải biết đánh vần, đọc chữ. Tương tự như vậy, muốn xem và hiểu một bản nhạc, ta cũng phải hiểu được các ký hiệu âm nhạc, và biết xướng âm. Có thể nói Nhạc pháp (gồm nhạc lý và xướng âm) là cửa ngõ dẫn vào âm nhạc.

2. Âm nhạc là một bộ mộn nghệ thuật dùng âm thanh để diễn đạt tình ý của con người. Nó được chia ra hai loại chính, đó là thanh nhạc và khí nhạc. Thanh nhạc là âm nhạc dựa trên lời ca, nên ý tưởng và tình cảm cụ thể và rõ ràng. Còn khí nhạc là âm nhạc dựa trên âm thanh thuần tuý của các nhạc cụ, nên trừu tượng, nó gợi ý, gây cảm giác hơn là nói lên một tình cảm nào rõ rệt. Cần phải học hỏi nhiều hơn mới lĩnh hội được.

3. Nghệ thuật là kết quả của hoạt động của con người biết dùng các phương tiện khả giác một cách khéo léo, tài tình, để thông đạt tình ý của mình. Trong âm nhạc, các phương tiện đó là âm thanh. Do đó, âm nhạc chủ yếu làm cho tai nghe. Muốn thưởng thức âm nhạc, phải nghe thực thụ chứ xem bằng mắt thì chưa đủ.

4. Âm thanh dùng trong âm nhạc thường có bốn đặc tính này :

4.1. Cao thấp (cao độ)

4.2. Ngắn dài (trường độ)

4.3. Mạnh nhẹ (cường độ)

4.4. Đục trong, sáng tối ... (âm sắc).

Thiếu một trong các đặc tính trên thì chỉ là tiếng động. Hiện nay người ta dùng nhiều tiếng động khác nhau trong âm nhạc, nhằm tăng cường mức độ diễn cảm cũng như tính tiết tấu của âm nhạc. Đó là các nhạc cụ thuộc bộ gõ như trống con, trống cái, phách, maracas, triangle, cymbal ...

5. Ký hiệu âm nhạc là toàn bộ các dấu hiệu cũng như chữ viết được dùng để ghi lại âm thanh với các đặc tính của chúng. Môn ký âm là ghi âm thanh lại bằng các ký hiệu âm nhạc trên giấy mực.

Nguồn : http://www.catruong.com/tailieu/nhacly/nhacly_qh_1chuongmodau.htm

Quy định của Damsan.net (trích yếu) - Gõ tiếng Việt có dấu. - Đăng bài đúng nơi quy định. - Tuyệt đối không được spam bài. - Đặt tiêu đề phù hợp với nội dung bài. - Sao chép, trích dẫn phải ghi rõ nguồn bài viết.
Top 10 Contributor
đại cầm sư cấp 1

CHƯƠNG I

KÝ HIỆU ÂM NHẠC LIÊN QUAN ĐẾN CAO ĐỘ

1. Tên các dấu nhạc có cao độ khác nhau mà người ta thường dùng là : DO, RE, MI, FA, SOL, LA, SI gốc tiếng La-tinh, đọc theo tiếng Việt là ĐÔ, RÊ, MÍ, FA, XON, LA, XI. Đó là 7 bậc cơ bản của hệ thống thất âm, tính từ thấp lên cao. Muốn lên cao hoặc xuống thấp hơn, người ta lặp lại tên dấu các bậc trên với cao độ cách nhau từng quãng 8 một (còn gọi là bát độ).

2. Người ta cũng còn dùng các chữ cái La-tinh để gọi tên các bậc cơ bản trên : đô : C, rê : D, mi : E, fa : F, xon : G, la : A, xi : B (hiện nay B chỉ Xi giáng, còn H chỉ Xi thường). [1]

3. Ở một số nước như Trung Hoa, Nhật Bản ... người ta còn dùng số thay cho tên gọi bằng chữ. Thí dụ : 1 : đô, 2 : rê, 3 : mi ... (1 chỉ dấu bậc I, 2 chỉ dấu bậc II, 3 chỉ dấu bậc III ..., 7 chỉ dấu bậc VII, muốn lên cao một bát độ, ta thêm dấu chấm trên con số, muốn xuống thấp một bát độ, ta thêm dấu chấm dưới con số 1, 1 ...). Số có 1 gạch là dấu móc, dấu có một gạch ngang là dấu trắng. Dấu không có gì là dấu đen...

 

                 Thang thất âm Đô luôn được trình bày dưới dạng 7 âm cơ bản đi liền nhau cộng thêm với âm đầu của thang âm được lặp lại ở bát độ : Đô Rê Mi Fa Xon La Xi (Đô). 

4. Khoảng cách về cao độ tương đối giữa các bậc không đồng đều nhau.

·        Khoảng cách nhỏ nhất trong thất âm gọi là nửa cung, giữa Mi với Fa và Xi với Đô.

·        Khoảng cách lớn nhất giữa hai bậc cơ bản đi liền nhau gọi là nguyên cung : giữa Đô với Rê, Rê với Mi, Fa với Xon, Xon với La, và La với Xi.

Ta có sơ đồ :

 

Đô--Rê--Mi-Fa--Xon--La--Xi-Đô (mỗi gạch ngang chỉ nữa cung, nguyên cung gồm 2 nửa cung).  

Như vậy khoảng cách âm thanh giữa Đô thấp và Đô cao kế tiếp gồm 12 nửa cung, hoặc 6 nguyên cung. Nói cách khác, quãng tám (Đồ - Đố) gồm 12 âm cách  nhau đều đặn từng nửa cung một (ở đây chỉ mới nói đến hệ âm điều hoà do nhạc sĩ Jean-Sebastien Bach (1685-1750)và Jean Philippe Rameau (1683-1764) cổ võ và được chấp nhận rộng rãi cho đến này). [2]  

 

 

 

5. Dấu hoá : là những ký hiệu cho biết các bậc cơ bản được tăng lên hay giảm xuống từng nửa cung điều hoà.

5.1. - Dấu thăng : (#) làm tăng lên nửa cung.

- Thăng kép : (x) làm tăng lên 2 nửa cung.

5.2. - Dấu giáng : (b) làm giảm xuống nửa cung.

- Giáng kép : (bb) làm giảm 2 nửa cung.

5.3. - Dấu bình : ( n ) cho trở về cao độ tự nhiên,

không còn bị ảnh hưởng của các dấu hoá cấu thành cũng như dấu hoá bất thường.

Ở một số nước như Đức, Nga ... khi dùng chữ cái La-tinh A, B, C ... người ta thêm vần is thay dấu thăng : Cis : Đô# ; Eis : Mi# ; Ais : La# ; Cisis : Đôx ... và thêm vần es thay dấu giáng : Ces : Đôb ; Ceses : Đôbb ; Des : Rêb ; Ees —> Es : Mib ; Aes —> As : Lab.

6. Nhờ các dấu hoá đặt trước các dấu nhạc trên khuông nhạc, các bậc cơ bản được nâng cao hoặc hạ thấp tạo thành các “bậc chuyển hoá" : Đồ - Đô# (Rêb) - Rê - Rê# (Mib) - Mi - Fa - Fa# (Xonb) - Xon - Xon# (Lab) - La - La# (Xib) - Xi - Đô (các dấu hoá này được gọi là các dấu hoá bất thường. Chỉ ảnh hưởng đến các dấu nhạc cùng tên trong cùng một ô nhịp, khác với các dấu hoá cấu thành ghi ở đầu khuông nhạc, còn gọi là hoá biểu, ảnh hưởng đến mọi dấu nhạc cùng tên trong cùng một đoạn nhạc). 

- Nửa cung dị chuyển : (diatonic đọc là đi-a-tô-ních) là nửa cung tạo nên bởi 2 bậc khác tên kề nhau.

 

- Nửa cung đồng chuyển : (chromatic đọc là crô-ma-tích) là nửa cung tạo nên bởi 2 bậc cùng tên.

 - Nguyên cung dị chuyển : được tạo nên bởi 2 bậc khác tên kề nhau.

 - Nguyên cung đồng chuyển : được tạo nên bởi 2 bậc cùng tên như Fa - Fa x, Xon - Xon bb hoặc 2 bậc khác tên không kề nhau : Đô# - Mib, Xon# - Xib. Trên thực tế đây là quãng ba giảm.

TD 5

a) 2 bậc cùng tên                         b) 2 bậc khác tên không kề nhau (= quãng 3 giảm)

7. Muốn ghi cao độ tuyệt đối của các âm thanh, người ta dùng đến khuông nhạc và khoá nhạc.

7.1. Khuông nhạc : Hiện nay người ta dùng 5 đường kẻ song song, tạo thành 4 khe song song, tính thứ tự từ dưới lên. Trên khuông nhạc đó, ta có 11 vị trí khác nhau, ghi được 11 bậc cơ bản. Muốn ghi thêm, người ta dùng các dòng kẻ phụ :

 7.2. Khoá nhạc : dùng để xác định tên các dấu nhạc ghi trên khuông nhạc. Khoá nhạc được ghi ở đầu mỗi khuông nhạc.

Hiện nay thường dùng 3 loại khoá chính sau :

a) Khoá Xon dòng 2 :

- Dành cho bè nữ và các đàn âm khu cao như violon, Flute, Oboe ...    

 

- Dành cho các bè nam cao và trầm : gồm khoá Xon Ricordi và khóa Xon hạ quãng 8 

 

b) Khoá Fa dòng 4 : dành cho các giọng nam và các dàn thuộc âm khu trầm như Violoncello (cello), Contrabasso, Fagotto, Trombone ...  

 

c) Khoá Đô dòng 3 : dùng cho đàn viola. 

8. Âm La mẫu có tần số 440 là âm chuẩn được đa số chấp nhận : nó được ghi trên khuông nhạc khoá Xon 2, nằm ở khe thứ 2. Người ta gọi đó là âm La 3, vì nó nằm trong bát độ thứ 3 của 4 bát độ hợp ca của giọng người.

Với hai khoá Xon và Fa, chúng ta có thể xác định chính xác độ cao tuyệt đối của các âm thanh thuộc âm vực giọng hát hợp ca trải dài trong 4 bát độ. Có những nhạc khí có thể phát ra âm thanh trầm hơn quá 1 bát độ (La - Xi - Đồ - Rê ... Đô1) hoặc cao hơn 2 bát độ (Đô5 - Rê - Mi ... Đô6). Để khỏi dùng đến quá nhiều dòng kẻ phụ, ta dùng dấu chuyển độ :

- Dấu chuyển độ lên : Phải tấu âm thanh lên cao hơn 1 bát độ : Ghi số 8 ở trên dòng nhạc, ngay chỗ bắt đầu phải chuyển độ, và thêm những vạch ngang rời song song với khuông nhạc cho đến khi diễn tấu bình thường như cao độ ghi trên khuông nhạc (có khi người ta viết chữ Octava đúng hơn Ottava Alta (8va Alta) ..... loco, loco báo hiệu trở lại bình thương (TD 6a).

- Dấu chuyển độ xuống : Phải tấu âm thanh thấp hơn 1 bát độ : Ghi số 8 dưới khuông nhạc với các vạch ngang rời cho đến khi không phải chuyển độ nữa (có khi thay bằng chữ Ottava bassa (8va bassa) ..... loco (TD 6b)).

TD 6 : Dấu chuyển độ

a) chuyển độ lên Ottava ..... loco             b) chuyển độ xuống Ottava bassa ..... loco

 
Quy định của Damsan.net (trích yếu) - Gõ tiếng Việt có dấu. - Đăng bài đúng nơi quy định. - Tuyệt đối không được spam bài. - Đặt tiêu đề phù hợp với nội dung bài. - Sao chép, trích dẫn phải ghi rõ nguồn bài viết.
Top 10 Contributor
đại cầm sư cấp 1

CHƯƠNG II

KÝ HIỆU ÂM NHẠC LIÊN QUAN ĐẾN TRƯỜNG ĐỘ

     A. trưng đ tương đỐi :

1. Để ghi trường độ tương đối giữa các âm thanh, người ta dùng các dấu nhạc với 7 hình dạng khác nhau.  

- Dấu tròn ( w )lâu bằng 2 dấu trắng ( h )

- Dấu trắng ( h ) lâu bằng 2 dấu đen( q )

- Dấu đen ( q  ) lâu bằng 2 dấu móc đơn ( e )

- Dấu móc đơn ( e ) lâu bằng 2 dấu móc đôi ( x )

- Dấu móc đôi ( x ) lâu bằng 2 dấu móc ba ( r )

- Dấu móc ba ( r ) lâu bằng 2 dấu móc tư (  )

Như vậy một dấu tròn : 2 trắng : 4 đen : 8 móc đơn : 16 móc đôi : 32 móc ba : 64 móc tư.

2. Dấu lặng : là những ký hiệu cho biết phải ngưng, không diễn tấu âm thanh trong một thời gian nào đó. Các dấu lặng trong thời gian tương ứng với dạng dấu nhạc nào, thì cũng có tên gọi tương tự.

 

3. Dấu chm : là ký hiệu đi sau dấu nhạc, hoặc dấu lặng, có giá trị bằng nửa trường độ ký hiệu đi trước nó.

Thí dụ :  

q . = q  +  e    

                         h . . = h + q + e

4. Dấu nối : là đường vòng cung nối liền nhiều dấu nhạc với nhau. Có 2 loại :

4.1. Dấu nối 2 dấu nhạc cùng cao độ làm kéo dài trường độ dấu nhạc đầu, bằng tổng số trường độ của cả hai dấu nhạc.  

h        h  =  w

4.2. Dấu nối nhiều dấu nhạc khác cao độ (còn gọi là dấu luyến) cho biết phải diễn tấu các dấu nhạc đó liền tiếng với nhau.

 

   

 

 

 

 

5. Dấu lưu (Dấu miễn nhịp) : là nửa vòng cung nhỏ có một chấm ở giữa  U  đặt trên hoặc dưới ký diệu âm nhạc nào thì cho nó được kéo dài bao lâu tuỳ ý.

 

 

 

 

 

 

6. Ô nhịp : là phần khuông nhạc được giới hạn bởi 2 vạch nhịp.

Trong nhạc mới, thường người ta chia bài nhạc thành nhiều ô nhịp. Các ô nhịp có tổng số các ký hiệu bằng nhau. Muốn biết mỗi ô nhịp có trường độ bao nhiêu ta căn cứ vào số loại nhịp (số tiết nhịp) viết ở đầu bài nhạc, gọi tắt là số nhịp.

 

 

 

 

 

7. Số nhịp : là một phân số cho ta biết phải chia dấu tròn ra làm mấy phần, và tử số cho ta biết trong mỗi ô nhịp có mấy phần như vậy. Thí dụ 2/4 : dấu tròn chia làm 4 phần, mỗi phần bằng một dấu đen và trong mỗi ô nhịp ta có 2 dấu đen hoặc các ký hiệu tương đương hai dấu đen (xem thí dụ 9).

8. Phách : là đơn vị thời gian trong âm nhạc, giống như bước chân người đi trong không gian. Nhờ phách mà ta cảm nhận được sự chuyển động của âm thanh trong thời gian.

8.1. Phách chia 2 : là loại phách có thể chia ra 2 phần đều nhau.

Thí dụ : Trong loại nhịp 2/4, mỗi ô nhịp có hai phách, mỗi phách là 1 dấu đen. Dấu đen này có thể chia thành hai dấu móc đơn :  

=  e    e

Loại nhịp gồm phách chia 2 gọi là loại nhịp chia 2 (nhị phân) hoặc nhịp đơn.

8.2. Phách chia 3 : Là loại phách có thể chia ra 3 phần đều nhau.

Thí dụ : Trong loại nhịp 6/8 gồm hai phách, mỗi phách là 1 dấu đen chấm. Phách này có thể chia thành 3 dấu móc đơn :  

q .  =          e

Loại nhịp gồm phách chia 3 gọi là loại nhịp chia 3 (tam phân) hoặc loại nhịp kép.

9. Các nhóm dấu bất thường :

9.1. Liên ba : Là 3 dấu nhạc có trường độ bằng nhau, nhưng khi diễn tấu thì trường độ của chúng bằng trường độ 2 dấu nhạc cùng hình dạng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

9.2. Liên năm, liên sáu, liên bảy : Là diễn tấu 5, 6 hoặc 7 dấu thay vì chỉ phải diễn tấu 4 dấu cùng hình dạng.

 

 

 

 

9.3. Liên hai : là 2 dấu nhạc có trường độ bằng nhau nhưng được diễn tấu trong thời gian bằng 3 dấu cùng hình dạng.  

Nói cách khác là dấu nhạc có chấm (loại phách chia 3) thay vì được chia 3 như thường lệ thì chỉ được chia 2 thôi.

9.4. Liên tư : Là diễn tấu 4 dấu thay vì cần diễn 6 dấu cùng hình dạng.

 

 

10. Các ký hiệu dùng để lặp lại :

10.1. Lặp lại một âm hình giai điệu nào đó trong cùng một ô nhịp, thay vì viết ra cả thì chỉ cần viết 1 lần rồi ghi các vạch xiên chỉ trường độ.

   

 

 

 

 

 

 

 

 

10.2. Một âm thanh hoặc một hợp âm cần nhắc lại thì ghi tổng số trường độ và thêm các gạch chỉ trường độ phải lặp lại :

 

 

 

 

 

 

10.3. Lặp lại luân phiên nhiều lần âm thanh hoặc hợp âm (trémolo)

 

 

   

 

 


10.4. Lặp lại nguyên 1 hoặc 2 ô nhịp :

 

 

 

10.5. Lặp lại một đoạn nhạc : dùng dấu hồi đoạn                  }   (Td 18a)

10.6. Lặp lại một đoạn dài, hoặc cả bài : Dùng dấu hồi tống  @   (Td 18b)

 

 

 

 

Khi phần cuối đoạn lặp lại có khác biệt với phần cuối đoạn đầu thì người ta ghi dấu ngoặc vuông với số 1 hoặc chữ a trên phần khác biệt của đoạn đầu, và ghi dấu ngoặc vuông với số 2 hoặc chư b trên phần cuối của đoạn lặp lại.

 

 

 

Lần đầu diễn theo số một (còn gọi là volta 1) cho đến dấu hồi tống thì lặp lại lần 2, bỏ volta 1, nhảy qua volta 2.

Người ta có thể thay dấu hồi tống bằng chữ DC (Da Capo nghĩa là trở lại từ đầu. Da Capo al fine = Trở lại từ đầu cho đến chỗ TẬN của bài).

 

 

 

 Bài nhạc nào có đoạn kết riêng, gọi là CODA thì người ta ghi dấu A  hoặc     để báo hiệu chỗ phải sang đoạn kết. Dấu báo kết  A ... được ghi 2 lần, lần đầu thường kèm theo chữ Al Coda (sang đoạn kết), lần hai ghi ngay đầu đoạn kết với chữ CODA. (Td 19c)  

 

 

 

 

 

 

 

B. trưng đỘ TUYỆT ÐỐI:

Muốn biết một âm thanh phải kéo dài bao nhiêu giây, người ta phải dùng tới những ký hiệu khác để diễn tả tốc độ của các âm thanh, còn gọi là nhịp độ của âm thanh (Tempo).

1. Ký hiệu ghi nhịp độ đều đặn : các chữ ghi nhịp độ thường cho ta 3 mức độ chính, đó là vừa, chậm và nhanh. Muốn chính xác hơn, người ta ghi thêm số phách hoặc số dấu nhạc phải diễn tấu trong một phút gọi tắt là số nhịp đoä. [3]

1.1                     CHỮ VIẾT                           Ý NGHĨA                      SỐ NHỊP ĐỘ

Nhịp độ chậm               Largo                                 Chậm rãi                            40-60

                                      Larghetto                           Bớt chậm rãi                      60-66

                                      Lento                                 Chậm

                                      Adagio                               Chậm                                 66-76

                                      Grave                                 Trịnh trọng

Nhịp độ vừa                  Andante                             Khoan thai                         76

                                      Andatino                            Bớt khoan thai                   108

                                      Moderato                           Vừa                                    108-120

                                      Allegro Moderato              Nhanh vừa                         120

                                      Allegretto                           Chưa nhanh lắm

Nhịp độ nhanh              Allegro                               Nhanh                                120-168

                                      Vivace                               Khá nhanh

                                      Presto                                 Hối hả, rất nhanh               168

                                      Prestissimo                         Cực nhanh                         208


1.2. Người ta còn thêm các chữ để nói rõ sắc thái hơn như :

          Molto            :    Rất

          Assai             :    Rất

          Non troppo   :    Không quá

          Non Tanto     :    Không đến thế

          Sempre         :    Luôn luôn (Sempre marcato : Luôn luôn rời mạnh)

          Meno            :    Ít hơn (Meno mosso : Kém linh hoạt hơn)

          Pìu                :    Hơn (Pìu andante : nhanh hơn Andante)

          Poco              :    Ít, một chút (Poco a poco : Từ từ)

          Quasi            :    Gần như.

2. Ký hiệu ghi nhịp độ thay đổi :

2.1. Tăng nhịp độ :

          Accelerando (Accel.)    :    Nhanh dần lên

          Animando                     :    Linh động, hào hứng

          Stretto                            :    Dồn dập, gấp rút

2.2. Giảm nhịp độ :

          Ritardando (Ritard.)       :    Chậm lại

          Rallentando (Rall.)        :    Chậm dần

          Allargando (Allarg.)      :    Mở rộng ra, giãn ra.

          Ritenuto (Rit.)               :    Giữ lại, ghìm lại

          Poco lento                     :    Hơi chậm.

2.3. Nhịp độ tư do :

          Ad libitum (ad lib.)        :    Nhịp độ tuỳ ý

          A piacere                      :    Tuỳ thích

          Senza tempo                 :    Không cần giữ nhịp

          Rubato                           :    Lơi nhịp

2.4. Vào nhịp độ bắt buộc :

          Tempo                               :    Vào nhịp (sau một đoạn nhạc ad lib.)

          A tempo, Tempo primo :   Trở về nhịp độ ban đầu

               (AT),    (1 Tempo)

          L'istesso tempo                  :    Giữ y nhịp độ cũ dù có thay đổi số nhịp, nghĩa là một                                   phách ở loại nhịp trước vẫn bằng 1 phách ở loại nhịp                            sau.

                                                         Thí dụ 2/4 đổi qua 6/8 thì q trong 2/4 = q . trong 6/8
Quy định của Damsan.net (trích yếu) - Gõ tiếng Việt có dấu. - Đăng bài đúng nơi quy định. - Tuyệt đối không được spam bài. - Đặt tiêu đề phù hợp với nội dung bài. - Sao chép, trích dẫn phải ghi rõ nguồn bài viết.
Top 10 Contributor
đại cầm sư cấp 1

CHƯƠNG III

CÁC KÝ HIỆU ÂM NHẠC LIÊN QUAN ĐẾN CƯỜNG ĐỘ

1. Các chữ dùng để ghi cường độ thường dùng là :

          Pianissimo       (pp)   :    Rất nhẹ

          Piano               (p)     :    Nhẹ

          Mezzo-Forte   (mf)   :    Mạnh vừa

          Forte               (f)      :    Mạnh

          Fortissimo       (ff)     :    Rất mạnh

Có khi người ta còn dùng ppp để chỉ cực nhẹ và fff để chỉ cực mạnh

2. Các chữ hoặc ký hiệu dùng để báo hiệu thay đổi cường :

          Crescendo       (Cresc.)       :    Mạnh dần lên

          Decrescendo   (decresc.)   :    Nhẹ dần lại

          Diminuendo    (dim.)          :    Bớt lại

          Morendo         (mor.)         :    Lịm dần (thường dùng cuối đoạn, cuối bài)

          Smorzando      (Smor.)       :    Tắt dần

          Subito forte     (Sf.)            :    Mạnh đột ngột

          Sforzando        (Sfz.)           :    Nhấn buông, nhấn mạnh rồi nhẹ ngay (fp)

          Marcato           (>)               :    Mạnh mà rời

                           

          Staccato          (dấu chấm trên dấu nhạc)   :    Nhẹ mà rời   

                   

           Sostenuto        (gạch ngang trên dấu nhạc)   :    Cẩn trọng, nâng niu (pfp)  

           

          Sotto voce                          :    Hát nửa tiếng, êm nhẹ

          Dolce                                 :    Dịu dàng, nhẹ nhàng

Ngoài ra, để chỉ phải liên kết các dấu nhạc mạnh dần hoặc nhẹ dần một cách liên tục, không rời rạc, người ta dùng chữ Legato (liền tiếng, liền giọng).

3.Phân loại cường độ:

Có 2 cách phân định cường độ

3.1.Cường độ cố định: là cường độ được qui định trước theo nguyên tắc "Phách đầu mạnh,phách cuối nhẹ", mà không cần để ý đến giai điệu cũng như ý nghĩa của nó.

 Cụ thể -trong loại nhịp 2 phách:  phách 1 mạnh, phách 2 nhẹ

-trong loại nhịp 3 phách: phách 1 mạnh, phách 2 vừa, phách 3 nhẹ;

-trong loại nhịp 4 phách: phách 1 mạnh, phách 2 vừa, phách 3 mạnh vừa, phách 4 nhẹ. Loại cường độ nầy thường dùng cho nhạc vũ đạo, quân hành, sinh hoạt, có tính cách bình dân đaị chúng, hoặc dùng cho người mới  học nhạc để tập luyện giữ đúng nhịp. Nó có tính cách máy móc vì không để ý đến ý nghĩa của bài nhạc.

3.2.Cường độ diễn cảm: là cường độ do tiết tấu hoặc do ý nghĩa lời ca gợi ý. Chính loại cường độ nầy mới tạo "hồn" cho âm nhạc. Cần học phân tích tiết tấu thì mới biết phân phối cường độ sao cho phù hợp với từng dấu nhạc, từng nét, từng vế, từng câu, từng đoạn, từng bài nhạc

4. Khi tác giả ghi các ký hiệu về cường độ, thì đó cũng chỉ mới là hướng dẫn sơ khởi cho từng chỗ, từng đầu câu mà thôi, chứ không thể ghi chi tiết cường độ của tất cả mọi dấu nhạc trong câu trong bài được. Dù ghi hay không ghi ký hiệu cường độ, chúng ta cũng phải dựa trên tiết tấu của từng câu, từng đoạndựa trên ý nghĩa lời ca để phân phối cường độ cho xứng hợp, vì cường độ là yếu tố chủ chốt làm cho bài nhạc có hồn, có sinh khí. Người ca hát có hồn, có tâm tình là người biết dùng cường độ đúng lúc, đúng nơi. Chúng ta không nên dùng cách diễn tấu máy móc của các loại nhạc vũ,nhạc quân hành, nhạc sinh hoạt để diễn tấu các loại nhạc khác, đòi hỏi mức thưởng ngoạn cao hơn.

Quy định của Damsan.net (trích yếu) - Gõ tiếng Việt có dấu. - Đăng bài đúng nơi quy định. - Tuyệt đối không được spam bài. - Đặt tiêu đề phù hợp với nội dung bài. - Sao chép, trích dẫn phải ghi rõ nguồn bài viết.
Top 10 Contributor
đại cầm sư cấp 1

 

1. Khái niệm về tiết tấu

1.1. Sự hình thành tiết tấu :

Âm nhạc thuộc loại nghệ thuật chuyển động, nghĩa là bản nhạc phải được trình tấu trọn vẹn từ dấu đầu đến dấu cuối. Có như vậy bản nhạc mới thực sự được thành hình. Sự móc nối giữa dấu nhạc (nhóm dấu, vế, câu, đoạn nhạc) nầy với dấu nhạc (nhóm dấu, vế, câu, đoạn nhạc) kia làm thành tiết tấu của bản nhạc.

Vì vậy sự hiểu biết về tiết tấu rất cần thiết và quan trọng đối với người ca trưởng, nếu không, việc trình tấu sẽ trở nên máy móc, thiếu mạch lạc, nhất là đối với nhạc có lời ca.

1.2. Nguyên tắc móc nối của tiết tấu :

 

Mỗi sự móc nối (liên kết) trên đều gồm hai phần, khởi sự và kết thúc. Để phác hoạ sự móc nối đó trên không, người điều khiển:

NÂNG TAY LÊN [Arsis (a) ] rồi HẠ TAY XUỐNG [Thésis (q)]

Giai đoạn này chưa có vạch nhịp kể cả các bản nhạc viết cho nhiều bè cũng vậy (T.K 16 có bài từ 48 đến 52 bè). Các bài bản được chép riêng cho từng bè và các bè tự giữ lấy nhịp.

1.3. Vạch nhịp ra đời :

a. Lý do : Đầu thế kỷ 17 Âu châu nổi lên một phong trào nhạc vũ đại chúng (basse danse) để phản ứng lại thứ nhạc cầu kỳ của thời Phục hưng. Khi đó vạch nhịp được sinh ra với mục đích giúp cho người hát biết bè của mình đang ở ô nhịp thứ mấy. Cũng như giúp cho các vũ công biết chỗ hạ chân xuống. Như vậy vạch nhịp đã cắt tiết tấu ra làm đôi, tức là được đặt trước chỗ HẠ XUỐNG của tiết tấu như :

Tiết tấu thì liên kết, còn vạch nhịp thì phân cách, nên ô nhịp thường không có ý nghĩa.

b. Giá trị của vạch nhịp :

- Rất tốt cho nhạc vũ đại chúng, cũng như cho nhạc sinh hoạt, quân hành...

- Giúp cho dễ dàng kiểm soát những bản nhạc đa điệu.

Nhưng cũng chính các vạch nhịp này đã gây nên sự lầm lẫn đáng tiếc giữa tiết tấu và ô nhịp (Mesure) cũng như lý thuyết phách mạnh, phách nhẹ cố định trong âm nhạc.

 

2. Sự lầm lẫn giữa tiết tấu và ô nhịp

2.1. Nguyên nhân :

Khi dùng vạch nhịp trong nhạc có lời người hát mắt xem từng ô nhịp lâu ngày trở thành quen, nên khi hát, họ cố gắng hát sao cho bè mình thật ăn khớp với các bè khác. Từ đó trí khôn đâm lười biếng và mắt người ta dần dần chỉ còn nhìn thấy có ô nhịp thôi. Vì ô nhịp hiện ngay trước mắt, còn tiết tấu là sự móc nối liên kết của hai phần phải nhờ đến sự phân tích của trí khôn.

2.2. Hậu quả :

a. Từ khi vạch nhịp xuất hiện, càng ngày càng ít người quan tâm đến tiết tấu, trái lại ô nhịp được đề cao và nhấn mạnh trong cả lý thuyết lẫn thực hành như :

a.1. Trong câu định nghĩa : “Tiết tấu là sự liên tục phách mạnh - phách nhẹ” (Succession des temps forts et des temps faibles) tức là ô nhịp.


               a.2. Trong lối trình tấu theo nhịp tự do hay nhịp lơi (Rubato) các phần lẻ của trường canh đầu bài hoặc đầu đoạn, người ta sẽ hát các nốt đó bằng nhịp lơi. Đến đầu ô nhịp thứ hai mới vào nhịp thực thụ như :
 

Trong thí dụ trên, ba chữ : “Ôi Thần Linh” nếu hát bằng nhịp lơi sẽ không có sự kết hợp chặt chẽ với chữ “Chúa”. Trong khi theo ý nghĩa của lời ca, các chữ này phải móc nối liên kết với nhau.


               b. Một số tác giả hiện nay khi sáng tác chỉ nghĩ đến ô nhịp. Vì vậy họ tìm cách viết cho thật khác thường miễn sao mỗi ô nhịp có đủ phách là được, như bài “Dâng Hiến” (của Th. Th.) có những đoạn viết như sau :
 

- Hoặc một hình thức khác :  


              c. Chính sự lầm lẫn căn bản trong đầu giữa tiết tấu và ô nhịp đã làm cho việc trình tấu đâm ra máy móc tầm thường, vì khi hát tuy cũng có đủ dấu, đủ chữ nhưng vì không có sự móc nối hay móc nối ngược nên câu hát nghe thiếu hẳn cái hồn. Chẳng khác nào trẻ em ngây thơ đọc câu thơ của Nguyễn Du sau đây :

Khi tựa/ gối,khi/ cúi đầu/

Khi đọc tuy cũng đủ cả 6 chữ nhưng nghe không có mạch lạc rõ ràng như người lớn sành thơ đọc :

Khi tựa gối/, khi cúi đầu/

 

2.3. Giải toả sự lầm lẫn tiết tấu và ô nhịp

Phải đợi đến Jérôme de Momigny, lý thuyết gia người Bỉ (1762-1838) sự lầm lẫn tiết tấu và ô nhịp bắt đầu được giải toả dần dần.

Ông Momigny nói : “Khi tìm hiểu xem các dấu của một bản nhạc móc nối với nhau như thế nào, thì tôi thấy : Dấu ở trước vạch nhịp cấu kết với dấu sau vạch nhịp. Đó mới là tiết tấu. Tiết tấu cỡi ngựa trên vạch nhịp[11] chứ tiết tấu không phải là những dấu nhạc nằm gọn trong hai vạch nhịp. Có như vậy, Tiết Tấu mới có Sự Sống tức là có Ý Nghĩa còn ô nhịp thường không có ý nghĩa”.

Và sợ người ta mau quên, nên ông đã nhấn mạnh với một vẻ tha thiết hơn “Đây là lý thuyết cần phải viết lên cổng ra vào các Trường Nhạc và khi tôi thác đi, xin cũng viết nó trên mộ tôi để người đời khỏi quên nắm tro tàn của tôi”.

Sau hồi chuông cảnh tỉnh, nhiều người giật mình kiếm soát lại và thấy Momigny đã Xem Trúng, nên đã có phong trào tìm hiểu để trình tấu âm nhạc theo tiết tấu thực thụ như nhạc viện Ward tại Paris (Institut Ward de Paris). Ngoài phần lý thuyết dựa trên cái nhìn trúng của Momigny, Nhạc viện còn đề cao việc tập luyện những cử chỉ tay chân và thân thể để các Giáo chức “sống thật” với tiết tấu tức là cảm thấy rõ trong bắp thịt và toàn thân con người họ sự móc nối liên kết hai phần của tiết tấu.


Và cũng để chứng minh sự khám phá của Momigny là đúng, chúng ta cùng khảo sát câu hát sau đây : 

Phân tích câu hát này chúng ta nhận thấy :

- Tiết tấu cỡi ngựa trên vạch nhịp có ý nghĩa

- Ô nhịp thì thường không có ý nghĩa. Nên không thể hát theo ô nhịp.

 

3. Phách mạnh - phách nhẹ cố định trong âm nhạc

3.1. Nguồn gốc:

Ngày xưa trong loại nhạc đại chúng, khi hát thường có nhạc, vũ và có cả người điều khiển bằng gậy, khi hát tới phần hạ xuống của tiết tấu.

                                                                                            

a. Người điều khiển dộng gậy nhịp xuống chỗ kết của mỗi tiết tấu.

b. Người điều khiển hoặc có khi cả các nhạc công dậm chân có đeo vòng lục lạc ở mắt cá.

c. Chân các vũ công phải rơi xuống sàn xuống đất hết.

Tất cả những thứ đó cộng lại thành một tiếng động khá mạnh và tai quen dần với tiếng động đó, lâu ngày người trình tấu cũng như người nghe nhận phách đó là phách mạnh, phách kia là phách nhẹ

Như thế, vạch nhịp sinh ra không những đã cắt đôi tiết tấu mà còn dùng làm báo hiệu phách mạnh cố định trong loại nhạc đại chúng.


Nhưng song song với loại nhạc đại chúng, còn có loại nhạc dành cho trí thức với tiết tấu phức tạp, tế nhị hơn, chứ không có những phách mạnh, phách nhẹ cố định. Và lý thuyết nói trên chỉ phù hợp với một số ngôn ngữ có vần nặng vần nhẹ như : Ý, Pháp, Mỹ ...

Thí dụ :  

Tiếng Pháp vần nhấn ở cuối chữ.


              Nhưng lý thuyết này lại không hợp với một số ngôn ngữ như La ngữ :
 

Tiếng la-tinh luôn nhẹ ở vần cuối.

 

Riêng tiếng Việt Nam vì là ngôn ngữ từng vần không có trọng âm bó buộc, nên lý thuyết phách mạnh - phách nhẹ cố định nói trên cũng không phù hợp.

Thí dụ : Việt / Nam, mênh / mông, êm / êm….cả hai âm tiết đều có thể được nhấn mạnh hoặc đọc nhẹ như nhau mà không mất ý nghĩa.

 

3.2. Giá trị Phách mạnh - Phách nhẹ

Theo những so sánh và nhận xét ở trên, chúng ta thấy :

a. Lý thuyết phách mạnh - phách nhẹ cố định chỉ có giá trị tuyệt đối cho những loại nhạc bình dân, đại chúng, hành khúc, nhạc sinh hoạt, nhi đồng v.v... chứ không bó buộc phải áp dụng vào tất cả mọi loại nhạc.

b. Lý thuyết trên hợp với một số ngôn ngữ có vần nhấn vần nhẹ.

c. Riêng tiếng Việt Nam ở ngoài vòng kiềm toả của lý thuyết này. Vậy chúng ta cần phải để tiếng Việt được hoàn toàn tự do định đoạt theo vị trí của dấu nhạc cao thấp cũng như theo ý nghĩa của lời ca hoặc lý do tâm tình ...

Tóm lại : Vấn đề tiết tấu và phách mạnh - phách nhẹ trong âm nhạc không phải chỉ đơn sơ có thế. Nhưng ít là người ta đã may mắn được Ông Momigny giúp cho nhìn lại trúng sự móc nối liên kết căn bản trong các dấu của bản nhạc. Thay vì nhìn từng ô nhịp, người ta biết nhìn tiết tấu “Cơiõ Ngựa Trên Vạch Nhịp”. Đối với người ca trưởng biết nhìn trúng chưa đủ mà còn phải tập sống thực với tiết tấu căn bản đó trong gân mạch và toàn thân  mình nữa.

 
Quy định của Damsan.net (trích yếu) - Gõ tiếng Việt có dấu. - Đăng bài đúng nơi quy định. - Tuyệt đối không được spam bài. - Đặt tiêu đề phù hợp với nội dung bài. - Sao chép, trích dẫn phải ghi rõ nguồn bài viết.
Top 100 Contributor
cầm sư cấp 1
Chà công phu quá nhỉ. Em cám ơn bác Lee nhiều nhé.
多谢大家 世上无难事,只怕有心人。
Top 50 Contributor
cầm sư cấp 2
hic đọc xong tui vẫn không hiểu tiết tấu là gì. có bác nào giải thích hộ tui không tiết tấu , giai điệu là gì ?
Top 10 Contributor
đại cầm sư cấp 1

onggiamesao:
hic đọc xong tui vẫn không hiểu tiết tấu là gì. có bác nào giải thích hộ tui không tiết tấu , giai điệu là gì ?

Cụ thể là phần nào, câu chữ nào trong phần trên khiến bác không hiểu vậy? xin bác góp ý để anh em được nắm vấn đề.

Quy định của Damsan.net (trích yếu) - Gõ tiếng Việt có dấu. - Đăng bài đúng nơi quy định. - Tuyệt đối không được spam bài. - Đặt tiêu đề phù hợp với nội dung bài. - Sao chép, trích dẫn phải ghi rõ nguồn bài viết.
Top 50 Contributor
cầm sư cấp 2

----- Sự móc nối giữa dấu nhạc (nhóm dấu, vế, câu, đoạn nhạc) nầy với dấu nhạc (nhóm dấu, vế, câu, đoạn nhạc) kia làm thành tiết tấu của bản nhạc--------- ?

----- tiết tấu là sự móc nối liên kết của hai phần phải nhờ đến sự phân tích của trí khôn.---- ?

Big Smile à. onggia thấy bài viết nói về "tiết tấu" . nhưng cả bài không thấy nói về tiết tấu là gì ? cách xác định tiết tấu ?

sự thay đổi tiết tấu trong 1 bản nhạc ? 

ví như bài trống cơm thì tiết tấu của nó thế nào ? 

 

Top 10 Contributor
cầm sư cấp 4
Tài liệu này chuối ko thể tả đc. Lee lấy nguồn từ đâu vậy? Ngôn ngữ lang bang ,dùng từ bóng gió khó hiểu quá. Ra ngoai mua cuốn nhạc lý cơ bản và nâng cao scan post lên hay hơn đó.
Top 10 Contributor
đại cầm sư cấp 1
uhm, chuối thiệt, để tìm cuốn sách khác mà up lên vậy, onggiamesao chờ thêm chút nha!
Quy định của Damsan.net (trích yếu) - Gõ tiếng Việt có dấu. - Đăng bài đúng nơi quy định. - Tuyệt đối không được spam bài. - Đặt tiêu đề phù hợp với nội dung bài. - Sao chép, trích dẫn phải ghi rõ nguồn bài viết.
Top 10 Contributor
đại cầm sư cấp 1
  1. Là cách tổ chức thời gian trong âm nhạc
  2. Rhythm phân chia những khoảng thời gian dài thành những đơn vị nhỏ hơn.
  3. Làm cho Melody-giai điệu có hình dạng.
Tiết tấu chính là sự sắp xếp các âm thanh ngắn dài khác nhau, thành từng nhóm nhỏ, nhóm lớn theo tình ý của người soạn nhạc. Nói dễ hiểu thì tiết tấu đại diện cho sự nhanh hay chậm của một đoạn nhạc. Như vậy, tiết tấu là yếu tố xử lý trường độ của âm thanh để tạo nên trật tự, ý nghĩa, sự hài hoà và sự sống cho bản nhạc. Bất cứ một chuyển động nào, dù ngắn hay dài, đều bao gồm hai thời điểm : đó là lúc khởi đầu lúc kết thúc. Lúc khởi đầu là yếu tố động, đòi hỏi năng động, sức mạnh, cường độ ; lúc kết thúc là yếu tố tĩnh, đòi hỏi sự nghỉ ngơi, êm nhẹ, buông lỏng. Tiết tấu liên kết, pha trộn các yếu tố này với nhau sao cho khéo léo, hợp với ý nghĩa lời ca hoặc hợp với tình ý của chủ đề bản nhạc. Trong âm nhạc, lúc khởi đầu người ta gọi là nét vươn lên hay là bước tiến (arsis), khi kết thúc thì gọi là chỗ nghỉ ngơi hay là bước lui (thesis).

Các bạn có thể nghe tiết tấu sau để có khái niệm về nhịp:

http://en.wikipedia.org/wiki/Image:Clave_pattern.ogg

700px-Clavepattern.jpg

  • Beat: Rhythm - Tiết tấu gắn liền với Beat- Nhịp. Nói một cách đầy đủ thì Beat là một xung CHẴN chia thời gian ra thành những khoảng BẰNG NHAU. Đơn giản hơn bạn chỉ cần hiểu nhịp bằng cách VỖ TAY hay NHỊP CHÂN.
  • Meter: Là một khái niệm liên quan đến thời gian trong âm nhạc phương Tây. Khái niệm này tập trung một số beat vào một nhóm, và được thể hiện bằng Số nhịp. Một cách nhìn khác là Measure, khái niệm này có lẽ dễ hiểu hơn.
  • Measure hay Bar là một nhóm, thông thường là 2,3 hay 4 Beats. Phân cách nhau bằng một vạch dọc trong các khuông nhạc hình thành ô nhịp.
  • Ô nhịp : là phần khuông nhạc được giới hạn bởi 2 vạch nhịp. Thường người ta chia bài nhạc thành nhiều ô nhịp. Các ô nhịp có tổng số các ký hiệu bằng nhau. Muốn biết mỗi ô nhịp có trường độ bao nhiêu ta căn cứ vào số loại nhịp (số tiết nhịp) viết ở đầu bài nhạc, gọi tắt là số nhịp. Như hình dưới bạn thấy có 3 Ô nhịp và có Số nhịp là 2/4.td9.gif 
  • Time Signature hay Meter Signature -  Số nhịp: là một phân số cho ta biết phải chia dấu tròn ra làm mấy phần, và tử số cho ta biết trong mỗi ô nhịp có mấy phần như vậy. Thí dụ 2/4 : dấu tròn chia làm 4 phần, mỗi phần bằng một dấu đen và trong mỗi ô nhịp ta có 2 dấu đen hoặc các ký hiệu tương đương hai dấu đen . Nói cách khác mẫu số cho ta biết Node value nào trong một beat. Còn tử số cho ta biết bao nhiêu beat trong một Measure. Nhìn bảng dưới bạn sẽ thấy dễ hiểu hơn. Ví dụ mẫu số là 4 có nghĩa là một beat có độ dài bằng giá trị một nốt đen(Quarter node). Nếu mẫu số là hai thì là một beat có độ dài bằng giá trị một nốt trắng(Half node).

 

 

NoteRestAmerican nameBritish name
Image:longa rest.svg long (or longa) longa
Image:Breve rest.svg breve (or double whole note) Breve
Image:whole rest.svg whole note Semibreve
Image:half rest.svg half note Minim
Image:quarter rest.svg quarter note Crotchet
Image:eighth rest.svg eighth note Quaver
Image:16th rest.svg sixteenth note Semiquaver
Image:32nd rest.svg thirty-second note Demisemiquaver
Image:64th rest.svg sixty-fourth note Hemidemisemiquaver
Image:128th rest.svg hundred twenty-eighth note Quasihemidemisemiquaver/ Semihemidemisemiquaver

 

Một vài nhịp quen thuộc

Picture1.jpg

 

  • Downbeat : Là beat đầu tiên trong Ô nhịp. Bạn sẽ thấy Nhạc trưởng đưa baton XUỐNG khi gặp Downbeat.
  • Upbeat: Là beat cuối cùng trong Ô nhịp. Nhạc trưởng sẽ đưa Baton LÊN khi gặp Upbeat.

Một vấn đề nữa liên quan đến Nhịp điệu đó là nhịp độ của âm thanh (Tempo). Tempo: Dùng để diễn tả tốc độ của các âm thanh.   

Dưới đây là một số Tempo xếp theo thứ tự nhanh nhất ở trên, chậm nhất ở dưới.                

  • Prestissimo — extremely fast (200 - 208 bpm)
  • Vivacissimamente — adverb of vivacissimo, "very quickly and lively"
  • Vivacissimo — very fast and lively
  • Presto — very fast (168 - 200 bpm)
  • Allegrissimo — very fast
  • Vivo — lively and fast
  • Vivace — lively and fast (~140 bpm)
  • Allegro — fast and bright or "march tempo" (120 - 168 bpm)
  • Allegro moderato — moderately quick (112 - 124 bpm)
  • Allegretto — moderately fast (but less so than allegro)
  • Allegretto grazioso — moderately fast and with grace
  • Moderato — moderately (108 - 120 bpm)
  • Moderato con espressivo — moderately with expression
  • Andantino — alternatively faster or slower than andante
  • Andante — at a walking pace (76 - 108 bpm)
  • Tranquillamente — adverb of tranquillo, "tranquilly"
  • Tranquillo — tranquil
  • Adagietto — rather slow (70 - 80 bpm)
  • Adagio — slow and stately (literally, "at ease") (66 - 76 bpm)
  • Grave — slow and solemn
  • Larghetto — rather broadly (60 - 66 bpm)
  • Largo — Very slow (40 - 60 bpm), like lento
  • Lento — very slow (40 - 60 bpm)
  • Largamente/Largo — "broadly", very slow (40 bpm and below)
  • Larghissimo — very slow (20 bpm and below)

Tóm lại phần này bàn về những vấn đề liên quan đến trường độ của bản nhạc. Bản nhạc nhanh hay chậm.

Quy định của Damsan.net (trích yếu) - Gõ tiếng Việt có dấu. - Đăng bài đúng nơi quy định. - Tuyệt đối không được spam bài. - Đặt tiêu đề phù hợp với nội dung bài. - Sao chép, trích dẫn phải ghi rõ nguồn bài viết.
Top 10 Contributor
cầm sư cấp 4

Nói thật với các bác là em đọc xong mà em chẳng hiểu cái gì cả kiểu này chắc phải đi học thêm thôi . Mà các bác cứ thử đưa một bài có ghi kí hiệu các nút đồ , rê ,mi, pha, son ... thế thì bọn em còn hiểu chứ học thế này thì khác nào vịt nghe sấm . Mà nếu đi học thì mấy tháng thì có thể biết tương đối các bác nhỉ

Bán sáo trúc

http://saotruc.hnsv.com/

Email: shinichi_1901@yahoo.com.vn

ĐT 0986097526

 

Top 10 Contributor
cầm sư cấp 4

Em chỉ cho bác coi từ note Đô trở lên Đô3 thôi nhe . Còn lên nữa thì bác cứ đếm lên từ từ . Muốn xuống dưới note Đô thì bác cứ đếm ngược lại Đô Sì Là Sòl .... ( nói tóm lại , bác cứ lấy note Đô làm chuẩn để tính lên cao hoặc xuống thấp )

Đào Hoa Ảnh Lạc Mai Thần Kiếm Bích Hải Triều Sinh Táng Ngọc Tiêu

Top 10 Contributor
cầm sư cấp 4

ừ bác viết thế này em còn hiểu được. Chứ đọc thế kia từ đầu đến cuối em chẳng hiểu cái gì cả bởi vì cái này em dã học bao giờ đâu

Bán sáo trúc

http://saotruc.hnsv.com/

Email: shinichi_1901@yahoo.com.vn

ĐT 0986097526

 

Page 1 of 3 (45 items) 1 2 3 Next > | RSS
Copyright 2006 - 2011 by DamSan.Net
Powered by Community Server (Non-Commercial Edition), by Telligent Systems