Bạn đang truy cập vào diễn đàn cũ của Đamsan.Net. Diễn đàn này không nhận đăng kí thành viên mới cũng như bài viết mới kể từ ngày 11-02-2012. BQT.
Hoạ sĩ, nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng.
Ảnh: Nguyễn Đình Toán.
Ông lầm lũi nghiên cứu, ghi chép và sau đó là các công trình nghiên cứu uy tín như: "Điêu khắc cổ Việt Nam", "Đồ hoạ cổ Việt Nam", "Chùa Dâu - Tứ Pháp", "Chùa Bút Tháp" v.v... được công bố. Đó là vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, và người đó là Phan Cẩm Thượng, một cái tên cho đến nay đã trở thành thân thuộc trong giới mỹ thuật VN.Tôi gặp ông cùng vài người bạn tâm đắc trong một câu chuyện chung rất thời sự về những dòng sông đang chết vì nạn ô nhiễm. Ông lặng lẽ chẳng bình luận gì như thể đang phải nghe một chuyện đã nghe rất nhiều rồi, thành thuộc. Biết vậy, tôi hướng câu chuyện sang ngả khác bằng câu hỏi về nạn ô nhiễm văn hoá hiện nay cũng trầm trọng chẳng kém. Ông hưởng ứng ngay rồi nói:- Ở đâu thì văn hoá cũng được hình thành trên nền tảng của triết học, tôn giáo và nghệ thuật như một tam giác có liên quan chặt chẽ với nhau, chúng sẽ tạo nên một đời sống tinh thần có tính vĩ mô và từ đó chi phối văn hoá ứng xử của cộng đồng. Để xét xem một nền văn hoá có lành mạnh hay không đôi khi chỉ cần quan sát đời sống ứng xử thường ngày thay đổi đến mức nào.Thời phong kiến xưa, văn hoá ứng xử được hình thành trong mỗi làng với luân lý nho giáo, với nghệ thuật đình chùa, quan hệ xã hội là những tập tục ràng buộc bởi hương ước theo quy chuẩn, đạo đức, gắn liền với môi sinh cảnh quan và môi trường tâm linh. Nền văn hoá đó được ổn định và độc lập với thể chế phong kiến, nó từng tồn tại hàng bao thế kỷ.Nhưng đó là chuyện xa xưa, không thể áp dụng trước những đổi thay của lịch sử. Thời hiện đại, những rườm rà của văn hoá làng xã không còn nữa, và ở quốc gia nào cũng vậy, người dân phải thực thi hai vấn đề chính, xét ra rất đơn giản: Một là đi làm và đóng thuế, nông thôn cũng như đô thị; và hai là tuân thủ theo pháp luật sở tại. Điều đơn giản này, với sự ổn định ban đầu, lại chính là lý do nảy sinh ra một nền văn hoá ứng xử vô cùng phức tạp, từ trốn thuế đến tham nhũng, hối lộ, phá hoại nặng nề đến thái độ lao động và thái độ sống hàng ngày. Để tiện việc cho mình thì cứ phải có phong bì, từ việc trẻ con bắt đầu đi học cho đến những việc đại sự quốc gia. Thói quen này dần dần phá hỏng hoàn toàn nền tảng đạo đức. Đó là lý do của nạn ô nhiễm văn hoá.Nói kỹ hơn đó là văn hoá ứng xử, đành rằng đang sa sút nghiêm trọng, nhưng tôi vẫn kỳ vọng trong nghệ thuật, hội hoạ chẳng hạn, yếu tố cá nhân vẫn chi phối mọi ứng xử, chắc chưa đến nỗi nào, một không khí sáng tạo trong lành hẳn chưa bị ô nhiễm?- Tôi hiểu ý anh muốn đề cập đến tâm lý sáng tạo và tư tưởng nghệ thuật, nhưng ở ta, trước khi bàn đến việc này thì công việc quản lý nghệ thuật lại quan trọng hơn, đây tôi không muốn nói đến quản lý tư tưởng mà chỉ đơn thuần là nghề nghiệp thôi, ví dụ nếu lái xe ôtô, anh buộc phải có bằng chẳng hạn. Trong khi đó tất cả các gallery trong nước trưng bày và bán tranh không một ai có bất kỳ một mảnh bằng nào. Các ông chủ gallery cũng chẳng khác bất kỳ một ông chủ buôn bán tạp hoá, miễn là có lợi nhuận. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sức sáng tạo của hoạ sĩ, họ phải tự nhại lại mình nếu tác phẩm của họ đang được giá, bằng không sẽ có cả một đội ngũ sẵn sàng chép tranh của họ cho các gallery. Và lạ thay, ngoài đường, trên các phố phường đầy rẫy những cửa hàng chép tranh và bán công khai. Đây chỉ là một khía cạnh nhỏ của đời sống mỹ thuật. Vấn đề lớn hơn, bao hàm hơn, là vai trò của nghệ sĩ với xã hội và ngược lại. Thời xa xưa trong cái tương quan bền chặt của triết học, tôn giáo, nghệ thuật, các hoạ sĩ sáng tác theo cảm hứng và đề tài tôn giáo rồi gửi gắm vào đó tư tưởng nhân văn của mình. Họ có một bệ đỡ rất mạnh và sang trọng là tôn giáo và triết học, thử hỏi ông Leonar de Vinci, ông Rafaell nếu không có Thiên chúa chắc chắn không thể có những tác phẩm để đời cho nhân loại, tất nhiên các ông cũng có nỗi hồ nghi của mình với nhà thờ.
Một góc chùa Bút Tháp (Bắc Ninh).
Ảnh: T.L.